“Khi phải đối mặt với khả năng chết sớm, tôi nhận ra cuộc sống này rất đáng sống, có rất nhiều điều tôi muốn làm… Bạn cần phải đủ chín chắn để nhận thức được rằng cuộc sống không công bằng. Hãy làm những gì tốt nhất trong điều kiện của mình”, Stephen Hawking.
Tuổi thơ mờ nhạt
Ông sinh ngày 8/1/1942, trùng với kỷ niệm 300 năm ngày mất của nhà Vật lý, Thiên Văn, Toán học Galieo Galile tại Oxford, Anh. Cha của ông, Frank Hawking, từng giữ chức trưởng bộ môn Ký sinh trùng tại Viện Nghiên cứu Y học quốc gia và hướng con trai đi theo con đường y học. Nhưng ngay từ nhỏ Stephen Hawking đã bộc lộ niềm đam mê mãnh liệt với khoa học và vũ trụ.
Tuy nhiên, thời kỳ đầu đến trưởng, kết quả học tập của Stephen Hawking không mấy nổi trội. Thậm chí ông không thể đọc, viết thành thạo.
“Chị gái tôi, Philippa biết đọc khi mới 4 tuổi, còn tôi thì mãi đến 8 tuổi mới có thể đọc chữ thành thạo. Vở viết của tôi rất lộn xộn, những bài tập của tôi luôn khiến các cô giáo thất vọng. Tôi chưa bao giờ xếp hạng ở nửa trên của lớp, thế nhưng bạn học thường gọi tôi bằng biệt danh “Einstein”. Có lẽ họ đã nhìn thấy dấu hiệu của điều gì đó tốt hơn”, Stephen kể lại.
Mặc dù từng được nhận bằng danh dự của đại học Oxford, nhưng giáo sư Hawking cũng thừa nhận, ông là một sinh viên lười khi còn ở đại học này. Khi đó, Hawking hầu như không dành quá 1 giờ cho việc học. “Tôi không tự hào về quãng thời gian đó. Tôi chỉ mô tả thái độ thực tế của mình vào thời điểm đó: Chán nản và cảm thấy không có thứ gì đáng để nỗ lực, cố gắng”.
21 tuổi, bước ngoặt lớn nhất cuộc đời
Mọi chuyện thay đổi khi Stephen Hawking được chẩn đoán mắc bệnh xơ cứng teo cơ (ALS). Đây là căn bệnh khiến các tế bào thần kinh tê liệt. Một khi mắc bệnh, bệnh nhân sẽ cảm nhận cơ thể từ từ đông cứng cho tới khi liệt hẳn. Họ dần mất khả năng vận động, không thể nhai thuốc, thức ăn và gặp khó khăn khi hít thở. Các bác sĩ dự đoán, Stephen Hawking có thể không sống quá 2 năm.
“Khi đang học năm thứ 3 tại đại học Oxford, tôi nhận thấy mình ngày một vụng về. Vài lần, tôi bị ngã mà không rõ lý do. Mãi tới khi vào học tại Cambrigde, cha mới chú ý và đưa tôi gặp bác sĩ. Ông ấy gửi tôi đến một chuyên gia và ngay sau sinh nhật 21 tuổi, tôi bắt đầu làm các xét nghiệm tại bệnh viện. Kết quả chẩn đoán mắc bệnh thần kinh vận động làm tôi vô cùng sửng sốt”, Hawking từng viết.
Liệt toàn thân, chỉ cử động được một ngón tay, nhưng Stephen không để cho bộ não của mình bị liệt.
Hawking đã gần như suy sụp, tuy nhiên mối quan hệ với Jane Wilde, bạn của em gái ông, đã tiếp thêm nghị lực sống cho nhà khoa học thiên tài. “Khi phải đối mặt với khả năng chết sớm, tôi nhận ra cuộc sống này rất đáng sống, có rất nhiều điều tôi muốn làm”, Stephen Hawking nhớ lại.
Hawking đã quyết định quên đi sự suy sụp vì bệnh tật của mình. “Bạn cần phải đủ chín chắn để nhận thức được rằng cuộc sống không công bằng. Hãy làm những gì tốt nhất trong điều kiện của mình. Bởi vậy, tôi đã bắt đầu đi làm lần đầu tiên trong đời. Ngạc nhiên thay, tôi nhận ra rằng mình thích được làm việc”.
Jim Al-Khalili, Giáo sư Vật lý tại đại học Surrey từng nói về Stephen Hawking với sự ngưỡng mộ: “Tôi chắc chắn rằng Stephen Hawking được sinh ra để đạt được những điều tuyệt vời trong vũ trụ, bất kể ông có mắc căn bệnh quái ác đó hay không”.
Trong khi chẩn đoán về bệnh tật hiểm nghèo có thể làm lung lay ý chí của nhiều người, nó lại giúp Stephen Hawking tìm thấy động lực sống. Ông quay trở lại với các nghiên cứu, căn bệnh cũng tiến triển chậm hơn so với bác sĩ dự đoán. Lời chẩn đoán ban đầu về thời gian sống của Hawking bị phá bỏ.
Sự nỗ lực vượt qua bệnh tật của nhà khoa học là một kỳ tích. Về phần mình, Hawking cho rằng công việc nghiên cứu đã tặng cho ông nhiều thời gian sống hơn, điều mà người khác không làm được. “Tôi có một công việc và được chăm sóc đặc biệt. Điều đó đóng vai trò vô cùng quan trọng. Làm việc trong ngành Vật lý lý thuyết là một may mắn của tôi, bởi đây là một trong số ít lĩnh vực mà sự tàn tật không phải một khuyết điểm quá quan trọng”, Stephen Hawking chia sẻ với tờ New York Times năm 2011.
Cuộc chiến bền bỉ chống lại căn bệnh hiểm nghèo của Hawking, dù được giải thích bằng lý do nào đi chăng nữa, cũng khiến ông trở thành một minh chứng kỳ diệu cho sức sống mãnh liệt của con người nói chung.